Kiều Văn

Nguyễn Khuyến Một Con Người, Một Nhà Thơ Việt Nam Ưu Tú
Nguyễn Khuyến mất cách đây đã hơn 80 năm, nhưng tên tuổi ông, hình ảnh của ông đã đi vào lòng dân tộc sao mà đậm đà thân thương đến thế!
Trước hết vì nhà thơ là một con người, một tâm hồn thơ tiêu biểu cho bản sắc Việt Nam. Về phương diện này có thể so ông với Hồ Xuân Hương trước kia và Nguyễn Bính sau này.
Bản sắc tâm hồn Việt Nam! Cái đặc tính dịu dàng, kín đáo, không ồn ào nhưng

hóm hỉnh, trong sáng và sâu sắc, tế nhị, có lẽ là sản phẩm tinh thần độc đáo của xứ sở đồng bằng trồng lúa nước, xứ sở của những làng quê xanh ngắt với những lũy tre bao bọc xung quanh! Những đặc tính ấy đã từng làm say mê bao nhiêu du khách đến từ những đất nước xa xôi.
Mặc dù đã dự phần "bảng vàng bia đá ngàn thu", nhưng Nguyễn Khuyến lúc nào cũng giữ nguyên vẹn phong cách một ông già của xứ làng quê ấy, sống chan hoà với những người "chân quê" giữa đồng đất quê hương. Cảnh "bạn đến chơi nhà" là một bức tranh sinh hoạt nông thôn tiêu biểu, đằm thắm tình người:

Đã bấy lâu nay bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng chợ thời xa.
Ao sâu nước cả khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà...
Đầu trò tiếp khách, trầu không có
Bác đến chơi đây, ta với ta.

Hình ảnh những người dân quê được ngòi bút Nguyễn Khuyến miêu tả vừa sinh động, vừa như đượm niềm trìu mến sau nụ cười dí dỏm:

Hàng quán người về nghe xao xác
Nợ nần năm hết hỏi lung tung... !

Trong những cơn hoạn nạn: thiên tai địa ách, đói rét, ngoại xâm... giọng thơ của ông trở nên bi thiết trước số phận của cộng đồng mà ông là một thành viên không tách rời:

Quai Mễ Thanh liêm đã lở rồi
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi!
Gạo dăm ba bát cơ còn kém
Thuế một vài nguyên dáng vẫn đòi...
Đi đâu cũng thấy người ta nói
Mười chín năm nay lại cát bồi!

Cái bản sắc Việt Nam ấy hoà quyện trong một thiên nhiên Việt Nam đặc sắc và hữu tình. Cảnh nông thôn trong thơ Nguyễn Khuyến là những tác phẩm Thơ - Họa tuyệt tác, làm rung động mọi tâm hồn Việt Nam:

Cá vượt khóm rau lên mặt nước
Bướm len lá trúc lượn rèm thưa!

(Vịnh mùa hè)

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Là vàng trước gió sẽ đưa vèo...

Là bậc danh nho, từng đỗ đầu cả tam trường (Tam nguyên), Nguyễn Khuyến có nhiều trước tác uyên thâm bằng Hán văn - Nhưng khác với nhiều nhà Hán học, ông chủ tâm dùng chữ Hán để miêu tả sinh hoạt, phong cảnh và con người Việt Nam. Ông đã "Việt hoá" nội dung thơ chữ Hán. Thật kì thú khi đọc những câu thơ dịch từ chữ Hán mà mang phong vị Việt Nam đến thế:

Cóc vồ con kiến tha mồi
Chim rình bọ ngựa đang ngồi bắt ve.

Hoặc:
Hạt quất ngoài vườn chờ nứt vỏ
Giò tiên trong chậu chửa bung hoa.

Hoặc:
Ngang trời một tiếng chim ca
Nhà bên con trẻ nghê nga học bài.

Hoặc:
Vải chín, bà hàng bưng quả biếu
Cá tươi, lão giậm nhắc nơm chào!

Quả thật chẳng còn thấy cái chất "Hán học" ở đâu cả!
Có nhiều bài thơ chữ Hán của mình, chính ông lại dịch ra thơ nôm (chắc chắn vì sức hấp dẫn mãnh liệt của thơ nôm, của tiếng nói dân tộc), và trở thành những bài thơ hay, như bài "Khóc Dương Khuê".

Bác Dương, thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác, ngậm ngùi lòng ta!
......

Làm sao bác vội về ngay
Thoạt nghe tôi đã chân tay rụng rời!

Không chỉ là một tâm hồn Việt Nam tiêu biểu, Nguyễn Khuyến còn là một nhân cách Việt Nam tiêu biểu ở thời đại bấy giờ. Đó là thời đại mất nước, dân tộc bị chà đạp. Rất nhiều kẻ xuất thân "sĩ phu" đã làm tay sai cho giặc như Hoàng Cao Khải. Bản thân Nguyễn Khuyến cũng đã trót dấn thân vào con đường hoạn lộ. Nhưng với nhỡn quan sắc bén, ông nhìn rõ chân tướng của thời đại ông. Giữ vũng phẩm cách của một người yêu nước chân chính, ông dứt khoát vứt bỏ mọi thứ vinh hoa phú qúi, "treo ấn từ quan", giả đui giả điếc, trở về nơi thôn dã sống với nhân dân:

Bôn ba vừa chục năm tròn
Trở về may mắn ta còn là ta!

Ông chấp nhận cảnh sống bần bách suốt đời:

Quản chi công nợ có là bao
Nay đã nên to đến thế nào?
Lãi mẹ lãi con sinh đẻ mãi
Chục năm chục bảy nhiều sao!

Thậm chí ông đã "nếm" mùi đói rét:

Thương ta đau ốm nghèo nàn
Phong trần lại quá ươn hèn hơn ai.
Tuổi già mình chẳng có tài
Lấy gì chống đỡ những ngày reo neo?
Không ăn, cái bụng đói meo
Ăn vào, cái nhục mang theo bên người!

(Có người cho thịt)

Thế nhưng nỗi buồn về "sự nghèo" vẫn không ác liệt day dứt bằng nỗi đau của một con người ưu thời mẫn thế, đau nước đau nòi:

Bạn già lớp trước nay còn mấy?
Chuyện cũ mười phần chín chẳng như!

Hay:
Rừng xanh núi đỏ hơn ngàn dặm
Nước độc ma thiêng mấy vạn người.
Khoét rỗng ruột gan trời đất cả
Phá tung phên giậu hạ đi rồi!

Hay:
Năm trăm năm cũ nơi văn vật
Còn sót hòn non một nắm trơ!

(Hồ Hoàn Kiếm)

Một nhân cách thực sự cao cả làm sao có thể chịu khoanh tay bó gối trước cuộc đời ngang trái? Vậy Nguyễn Khuyến đã "xử thế" cách nào cho xứng với tầm vóc của ông? Biết mình không có khả năng làm chính trị, ông quay ra làm văn hoá! Ông làm thơ, làm câu đối, ca trù... cho mọi người thưởng thức. Ông sáng tạo ra thứ Văn Thơ Trào Phúng sâu sắc, chua cay, chĩa mũi dùi đả kích vào cái cuộc đời đồi bại và lố bịch bấy giờ. Dưới ngòi bút của ông hiện ra một triều đình "hề":

Vua chèo còn chẳng ra gì
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề!

một lũ quan lại tham nhũng:

Có tiền việc ấy mà xong nhỉ
Đời trước làm quan cũng thế a?

(Kiều bán mình)

một bà đầm thực dân:
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải.

một ông quan ta bị tây đá đít bằng "giày móng lợn", một ông nghè rởm:
Cũng cờ cũng biển cũng cân đai
Cũng gọi ông nghè có kém ai!

một cô "me tây":

Cái gái đời này gái mới ngoan
Quyết lòng ẩu chiến với Tây quan
Ba vuông phất phới cờ bay dọc
Một bức tung hoành váy xắn ngang!

Ông cũng cảnh tỉnh cả đám "dân ngu" chưa nhận ra cái nhục mất nước:

Cậy sức, cây đu nhiều chị nhún
Tham tiền, cột mỡ lắm anh leo
Khen ai khéo vẽ trò vui thế
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!

(Hội Tây)

Thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến khác nào một ngọn đuốc soi đường cho lương tri của dân tộc trong một thời đêm tối, giúp mọi người thấy rõ phải quấy, chính tà.

Với cốt cách của một bậc "hiền tài quốc gia", Nguyễn Khuyến đã xoay chuyển được ván cờ sự nghiệp đời mình, biến bại thành thắng. Thay vì cái kết thúc đáng buồn của một sĩ phu bất phùng thời, bất đắc chí, chịu chấp nhận "thân bại danh liệt", Nguyễn Khuyến đã lập nên một sự nghiệp văn chương chói lọi ngàn thu, làm rạng danh cho cả dân tộc! Đồng thời ông nêu một gương sống vô cùng cao quí.

Mặc dù mang nỗi đau đời lớn lao trong lòng, nhưng ông đã vượt được ra ngoài tâm trạng u ám của một nhân vật bi kịch. Thực vậy, Nguyễn Khuyến là con người tuyệt vời đã biết tìm và biết hưởng thụ niềm vui chân chính của cuộc sống. Thơ ông, bên cạnh cái cười thâm thuý, còn là bài ca về cuộc sống tươi đẹp, cuộc sống tuy có những đau khổ không cùng nhưng vẫn "không đáng chán".

Ông đã sống với thiên nhiên, với non sông đất nước bằng tất cả tâm tình:

Mặt nước mênh mông nổi một hòn...
Dẫu già đã hẳn hơn ta chửa?
Chống gậy lên cao gối chẳng chồn.

(Vịnh núi An Lão)

Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

(Thu điếu)

Mảnh vườn cũng lắm thú ghê
Ghế bên ngồi nghỉ tỉ tê một mình.

(Vườn nhỏ)

Ông đã sống thắm thiết với tình bạn tri âm:
Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau
Kính yêu từ trước đến sau
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?

(Khóc Dương Khuê)

Ông cũng tìm được nguồn vui chan chứa trong mối qua hệ với xóm giềng, với nhân dân lao động xung quanh ông:

Cách giậu mời ông hàng xóm chén
Chuyện tràn thóc lúa với tằm tơ

(Giải buồn)

Nguyễn Khuyến cũng có một thứ bậc cao trong làng say Việt Nam Kim cổ:

Đời trước thánh hiền đều vắng vẻ
Có người say rượu tiếng còn nay.
Cho nên say, say khướt cả ngày
Say mà chẳng biết rằng say ngã đùng!

(Uống rượu ở vườn Bùi)

Có thể nói, ông đã tìm được nguồn an lạc trong cuộc sống hàng ngày, và có lẽ vì vậy ông đã được hưởng chữ thọ:

Phận thua suy tính càng thêm thiệt
Tuổi cả chơi bời hoạ sống lâu
Em cũng chẳng no mà chẳng đói
Thung thăng chiếc lá, rượu lưng bầu.

(Lụt hỏi thăm bạn)

Thơ lại chén, chén lại thơ
Thảnh thơi ta vẫn ưa nhà ta hơn.

(Tự thuật)

Chính vì mang một nhân cách lớn, một bản sắc Việt Nam độc đáo, một tâm hồn thắm thiết một văn tài kiệt xuất và một cách xử thế đúng đắn, Nguyễn Khuyến là một con người và một nhà thơ ưu tú vào bậc nhất ở thời đại ông. Và "cụ Yên Đổ" mãi mãi sống trong tâm hồn chúng ta thật là thân thương, thật là trìu mến!
Kiều Văn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét